Liên Mạng Việt San
|
[
Trang SaiGon Times] |
[
Trang Liên Mạng] |
[
Thời Sự VN ] |
[
Bình Luận ] |
[
Văn Học và Lịch Sử] |
[
Vườn Thơ ] |
[
Radio/TV Online ] |
Bài Đã Đăng |
|
Trang
Bài Cũ |
Mục Thư Cũ |
-
Wednesday, September 27, 2006
-
Monday, October 02, 2006
-
Sunday, October 08, 2006
-
Monday, October 16, 2006
-
Thursday, October 19, 2006
-
Wednesday, November 01, 2006
-
Monday, November 06, 2006
-
Wednesday, November 22, 2006
-
Thursday, November 23, 2006
-
Wednesday, December 06, 2006
-
Saturday, December 16, 2006
-
Tuesday, January 02, 2007
-
Tuesday, January 16, 2007
-
Tuesday, January 30, 2007
-
Thursday, February 01, 2007
-
Monday, February 05, 2007
-
Thursday, February 15, 2007
-
Thursday, April 05, 2007
-
Wednesday, June 13, 2007
-
Thursday, June 14, 2007
-
Sunday, July 01, 2007
-
Monday, July 09, 2007
-
Wednesday, July 18, 2007
-
Thursday, August 02, 2007
-
Thursday, August 09, 2007
-
Saturday, September 01, 2007
-
Friday, September 28, 2007
-
Wednesday, October 03, 2007
-
Tuesday, November 06, 2007
-
Tuesday, November 13, 2007
-
Wednesday, December 19, 2007
|
Chinh t hức thành lập ngày28/12/2005 Copy
Right by
Nhất Thanh
Mọi
bài vỡ xin đóng góp và gửi vể Liên Mạng Việt
San
lienmang_vietsan@yahoo.com
|
|
|
Hồi ký: Tôi Tìm Tự Do (Kỳ 67)
Bài Viết
Đăng Nhập vào: Saturday, September 01, 2007
|
<< Trở Lại Trang Đầu |
Hữu Nguyên
Tôi là Nguyễn Hữu Chí, sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, từng có hơn một năm phải đội nón cối, đi dép râu, theo đội quân Việt Cộng xâm lăng Miền Nam. Trong những năm trước đây, khi cuộc đấu tranh bảo vệ chính nghĩa của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Úc còn minh bạch, lằn ranh quốc cộng còn rõ ràng, tôi hoàn toàn tin tưởng và sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu, thế lực của cộng sản. Nhưng gần đây, có những dấu hiệu rõ ràng chứng tỏ, những thế lực chìm nổi của cộng sản tại Úc đang tìm cách xóa bỏ lằn ranh quốc cộng, đồng thời thực hiện âm mưu làm suy yếu sức mạnh đấu tranh của người Việt hải ngoại. Trong hoàn cảnh đấu tranh ngày càng khó khăn đó, tôi thấy mình chỉ có thể đi tiếp con đường mình đã chọn khi được quý độc giả hiểu và tin tưởng. Vì vậy, tôi viết hồi ký này, kể lại một cách trung thực cuộc đời đầy đau khổ, uất ức và ân hận của tôi khi sống trong chế độ cộng sản, cũng như những nguy hiểm, may mắn khi tôi tìm tự do.... Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn trên nhiều phương diện, lại phải vừa duy trì tờ báo, vừa tham gia các sinh hoạt cộng đồng, vừa tìm cách "mưu sinh, thoát hiểm" giữa hàng chục "lằn tên đường đạn", nên hồi ký này có rất nhiều thiếu sót. Kính mong quý độc giả thông cảm bỏ qua, hoặc đóng góp nếu có thể.
*
(Tiếp theo...)
Qua kiếng chiếu hậu của chiếc xe đò, tôi thấy người tài xế thỉnh thoảng nhìn về phía chúng tôi, ánh mắt đầy vẻ xa lạ, né tránh. Cậu lơ xe thì vừa nhìn ra đường, vừa hát nghêu ngao bài "Trường sơn đông, Trường sơn tây". Trong xe, bầu không khí thiệt nặng nề. Cả ba chúng tôi đều im lặng vì không biết nói với ai và nói gì. Khi thấy một vài nóc nhà hiện lên dọc đường, báo hiệu gần tới thị trấn Đông Hà, người tài xế quay lại gọi cậu lơ xe tới gần rồi nói nhỏ với cậu điều gì đó. Cậu lơ xe gật gật đầu, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn trộm chúng tôi. Tuy không biết người tài xế nói gì với cậu lơ xe, nhưng xem thái độ của hai người, tôi biết điềm này lành ít dữ nhiều. Biết vậy, nhưng tôi đâu biết làm gì, đành thúc thủ chờ đợi. Xe chạy vô bến Đông Hà lúc trời vừa chập choạng tối. Xe chưa kịp dừng bánh hẳn, đã thấy cậu lơ xe nhảy khỏi xe, chạy vội vã về phía căn nhà nhỏ nằm cuối bến xe. Khi xe dừng bánh, chúng tôi lần lượt đứng dậy, đi về phía trước xe để xuống. BH, T và tôi đều cất tiếng chào người tài xế, nhưng ông chỉ gật đầu không đáp. Khi chào ông, tôi nhìn thẳng vô mặt ông, như muốn ngấm ngầm trao gửi cho ông một câu hỏi, một lời trách móc, nhưng ông né tránh. Vừa bước xuống xe, một cơn cuồng phong cuốn theo không biết bao nhiêu cát bụi thổi thốc vào mặt. Chúng tôi phải quay người, nép vào thành xe chống đỡ. Vậy mà mặt mũi miệng, vẫn thấy đầy cát. Đưa mắt quan sát chung quanh, dù lúc đó trời đã chập choạng tối, nhưng tôi vẫn thấy cả bến xe chỉ có hai chiếc xe đò, kể cả chiếc xe vừa chở chúng tôi tới. Phía bên trái của bến xe có vài chiếc quán siêu vẹo, tất cả đều đóng cửa. Nằm về phía bên phải của bến xe có một căn nhà bằng gạch, cửa tuy đóng, nhưng qua cửa sổ, tôi thấy có ánh đèn. Tôi đoán, đó vừa là trạm kiểm soát, vừa là trạm bán vé, và cậu lơ xe nghe lời tài xế đã chạy vô trong đó báo cáo về "3 người khách khả nghi chúng tôi" trên xe. Như vậy, tôi đoán, không sớm thì muộn, công an bộ đội sẽ xuất hiện kiểm tra giấy tờ và bắt giữ tụi tôi. Lòng đầy lo ngại, tôi nói nhỏ với BH và T, "Chúng mình phải đi lẹ lẹ lên. Tụi nó sắp đến tóm cổ mình rồi đó!" Nghe vậy BH vội run lên, hai tay níu chặt tay Tuấn, thảng thốt hỏi tôi: - Vậy mình phải làm sao bây giờ cậu? T cũng hoảng hốt không kém. Đưa mắt nhìn chung quanh, T bồn chồn: - Bây giờ đi đâu đây cậu? Nhìn thấy BH lúng túng với chiếc ba lô cồng kềnh, tôi giằng lấy đeo lên vai, rồi vừa rảo bước vừa nói: - Đi theo tôi ra khỏi bến xe này đã rồi tính... BH ríu ríu đi theo tôi. T đi sau cùng. Không ngoái đầu lại, tôi nói: - Cứ lặng lẽ đi theo tôi. Đừng nhìn ngang nhìn ngửa gì cả. Cũng đừng nói chuyện gì hết. Tụi nó trong căn nhà kia đang theo dõi mình đấy... Nói xong, tôi nghĩ những lời mình nói có thể làm cho BH và T hoảng hốt. Mà sự hoảng hốt trong lúc này thiệt vô cùng nguy hiểm. Vì vậy, tôi vội trấn an bằng một câu đầy mâu thuẫn với câu trước: - Cứ yên tâm từ từ đi. Cố đi một đoạn ngắn trên đường lộ, rồi mình chuồn vào rừng. Trời tối thế này, chúng sẽ không kiếm ra mình đâu. Đường xuyên biên giới từ Đông Hà sang Lào tuy là quốc lộ nhưng nhỏ, dốc, băng qua nhiều đồi, núi và dòng suối. Ngay khi ra khỏi bến xe, đi được một đoạn đường vài trăm thước, chúng tôi đã phải đổ dốc. Xuống đến chân dốc gặp một đoạn suối chảy băng ngang. Tuy nước suối chỉ xâm xấp ngập mặt đường khoảng một gang tay, nhưng vì mặt đường làm bằng những tảng đá lởm chởm, ngay cả xe hơi đi qua cũng phải nghiêng ngửa, nên chúng tôi bước đi rất khó khăn. Nhất là BH, một cô gái sinh ra và lớn lên ở Sàigòn, học trường đầm, chưa bao giờ gặp hoàn cảnh này, nên rất lúng túng và sợ hãi. Dù không phải mang ba lô trên vai, lại được T. đi bên cạnh giúp đỡ, BH vẫn vừa đi nghiêng ngửa, té lên tế xuống, vừa kêu lên những tiếng thảng thốt... Phải mất gần 10 phút đồng hồ, chúng tôi mới vượt được dòng suối cạn khoảng hai chục thước, sang được đến bên kia bờ an toàn. Đến đây, chúng tôi lại phải gặp khó khăn thứ hai là leo dốc. Dốc không dựng đứng, nhưng xiên xiên cả một chiều dài gần 300 thước, khiến chúng tôi muốn ngộp thở. Lúc đó trời đã tối hẳn, nhưng nhìn ra hai bên đường, tôi thấy không có chỗ nào thuận tiện để có thể chui vô ẩn nấp. Tôi tính thầm trong bụng, chờ lên đến đỉnh dốc, có được tầm quan sát chung quanh, định được phương hướng rõ ràng, lúc đó chúng tôi sẽ phải tạt vô rừng càng sớm càng tốt. Chứ ba người cứ đi dọc theo đường lộ này, không sớm thì muộn sẽ bị tụi bộ đội công an biên phòng bắt giữ. Tôi không ngờ khi leo dốc, BH và T lại gặp nhiều khó khăn. Vì đi bộ không quen, lại phải leo dốc, trời lại tối, nên đoạn dốc chỉ khoảng 300 mét, nhưng phải mất gần 20 phút đồng hồ, chúng tôi mới leo được tới đỉnh dốc. Để BH và T ngồi nghỉ mệt, tôi âm thầm quan sát chung quanh. Trước mắt tôi, con đường dốc hiện ra mờ mờ, báo hiệu chặng đường sắp tới sẽ càng ngày càng dốc, càng nguy hiểm. Đi ngoài đường quốc lộ, gặp dốc còn khó khăn vất vả như vậy, đi trong rừng gặp dốc chắc chắn sẽ còn khó khăn vất vả gấp bội. Dọc theo hai bên đường, tôi thấy thấp thoáng những ánh đèn leo lét, nằm rải rác. Đó có thể là nhà dân, nhưng cũng có thể là nhà của công an, bộ đội đóng tại Đông Hà. Nghĩ đến những người dân đi trên xe đò lúc trước, tôi thầm nhủ, ngay cả biết chắc một trong những ngôi nhà ven đường là nhà dân đi nữa, chúng tôi cũng không dám chui vô gõ cửa xin tá túc. Tình thế này, chúng tôi phải đi bộ ít nhất một, hai cây số dọc theo đường quốc lộ, rồi mới nghĩ đến chuyện tạt vô rừng ẩn nấp. Quay sang BH và T, tôi hỏi nhỏ: - Sao đã đỡ mệt chưa? BH chán nản, năn nỉ: - Mệt quá cậu ơi. Cho tụi cháu nghỉ chút nữa đi. T lồm cồm đứng dậy, hỏi tôi: - Sao mình không tạt vô rừng nghỉ ngơi một vài giờ rồi hãy đi, cậu? Tôi trả lời, giọng khuyến khích: - T. nói đúng lắm. Chúng mình chịu khó đi bộ khoảng nửa cây số nữa rồi tạt vô rừng nghỉ ngơi. Chỗ này toàn nhà ở hai bên đường, không biết là nhà dân hay nhà công an bộ đội, nếu mình tạt vô họ sẽ nghi ngờ, báo động tùm lum nguy hiểm lắm. Thôi BH chịu khó đứng dậy, đi cố một đoạn nữa đi... BH uể oải đứng dậy. Nhìn BH tôi xót xa. Trong bóng tối, dưới ánh sao, tôi thấy cặp mắt của BH long lanh. Tôi đoán, cháu đã khóc. Khóc vì mệt nhọc lo sợ, vì tủi thân, vì không biết số phận của mình sẽ đi về đâu, giữa quang cảnh âm u của núi rừng. Tôi muốn nói vài lời an ủi, động viên BH, nhưng sợ BH thêm xúc động, đau lòng, nên tôi quay mặt, cố nén tiếng thở dài, rồi mệt nhọc cất bước... Đi được khoảng hai trăm thước, trong lòng tôi đã khấp khởi mừng thầm, vì cho đến giờ, tôi vẫn không thấy dấu hiệu gì nguy hiểm như tôi thoạt lo ngại khi xuống xe. Cứ theo lẽ thường, sau khi được cậu lơ xe thông báo, công an bộ đội VC phải ra tay bắt giữ chúng tôi từ lâu mới phải, vì chúng tôi ba người, đều không có một tấc sắt trong tay. Giữa lúc tôi đang hy vọng một cách mong manh như vậy, bỗng nhiên từ phía trước, ở hai bên đường, một loạt hàng chục ánh đèn bấm loang loáng rọi thẳng về phía chúng tôi. Một tiếng hét thiệt lớn, lơ lớ giọng người thiểu số, vang lên trong đêm tối: - Đứng "nại"! Kèm theo tiếng hô là tiếng lên đạn lách cách. Tôi giật mình, điếng người. Thoáng nhìn, tôi biết ngay tình thế này không tài nào tẩu thoát. Khoảng hơn chục chiếc đèn bấm chiếu thẳng vào mặt chúng tôi. Như vậy, phải có ít nhất hơn chục tên công an, bộ đội với đầy đủ súng ống đang chặn đường chúng tôi. Sợ BH hay T vì hoảng hốt lúng túng, dễ có hành động liều mạng, hoặc có cử chỉ làm cho mấy tên công an hiểu lầm, gây nguy hiểm đến tính mạng, nên tôi vội nói nhỏ, "Mình đứng lại đi, đừng sợ!" Tiếng hét thứ hai lại vang lên, cũng lơ lớ giọng người thiểu số: - Giơ tay "nên"! Chúng tôi vội vã giơ tay. Những ánh đèn bấm lúc này vẫn loang loáng chiếu rọi lung tung. Chiếc thì chiếu vào mặt chúng tôi, chiếc thì chiếu lên người, chiếc thì chiếu sang chung quanh, quét ngang quét dọc. Người "thiểu số" lại hét lên: - Tất cả đứng im. Cấm nhúc nhích. Đồng chí X và đồng chí Y (tôi không nhớ tên nên tạm gọi như vậy) vô giải giới và tịch thu tang vật. Nghe y hô vậy, tôi đang hoảng hốt lo sợ mà cũng phải bật cười. Sự thực, ai cũng nhìn thấy rõ chúng tôi đâu có mang theo vũ khí gì đâu mà sao y lại hô đòi đòi giải giới chúng tôi? Hai tên X và Y bước lại. Cả hai đều không có súng. Khi đến cách tôi khoảng ba thước, tên X ra lệnh cho tôi bước về phía tay phải năm bước. Thì ra chúng rất khôn ngoan, trước hết, chúng không mang theo súng khi lại gần là để tránh tình trạng chúng tôi có thể liều mạng cướp súng. Sau đó, chúng bắt tôi đứng cách xa BH và T để khi "giải giới" tôi, BH và T không thể lợi dụng để có những phản ứng bất lợi. Về sau này, tôi mới được anh em trong trại tù Đông Hà cho biết, lực lượng canh phòng suốt từ Đông Hà về đến biên giới là lực lượng hỗn hợp thuộc bộ đội quốc phòng và công an biên phòng. Vì vậy, lực lượng này đều có kinh nghiệm trong việc đối phó và bắt giữ những người chống đối, cũng như người vượt biên. Sau khi gỡ chiếc ba lô ra khỏi vai của tôi, tên X và Y trói tôi giật cánh khuỷu bằng sợi dây dù. Không đầy 5 phút sau, T cũng bị trói tương tự. Riêng BH có lẽ vì là con gái, nét mặt rất ngây thơ, nên không bị trói. Như vậy là một lần nữa, tôi lại bước vào vòng tù tội. Cho đến lúc đó, tất cả những tên bộ đội công an không hề hỏi giấy tờ của chúng tôi và cũng không hỏi chúng tôi đi đâu, làm gì, tại sao lại đến đây, vân vân. Ngược lại, chúng tôi cũng lẳng lặng để cho chúng trói, tịch thu đồ đạc mà không hề hỏi ngược lại chúng, tại sao lại bắt trói, tịch thu đồ đạc của chúng tôi. Hành động ngang ngược của tụi công an, bộ đội; và thái độ im lặng chấp nhận của chúng tôi là điều dễ hiểu. Công an bộ đội VC đã biết rõ chúng tôi đang trên đường vượt biên, và chúng tôi cũng biết rõ điều đó. Vậy thì cãi lộn với chúng chẳng thể xoay chuyển được tình thế, mà còn tạo nguy hiểm cho chính mình. Tốt nhất là im lặng như đã bàn bạc với nhau. Đúng ra, trước khi lên đường vượt biên, tôi đã bàn rất kỹ với BH và T về những kế hoạch đối phó khác nhau nếu chẳng may bị bắt ở những nơi khác nhau. Chúng tôi đã đồng ý, nếu như bị VC hạch hỏi giấy tờ hay bị bắt ở bến xe, trạm kiểm soát dọc đường, chúng tôi còn có thể dùng giấy tờ giả cộng với những lời khai khôn khéo để qua mặt. Còn từ Đông Hà trở đi, mọi giấy tờ giả đều vô hiệu, nên chúng tôi đồng ý huỷ hết giấy tờ giả, và chấp nhận, nếu bị bắt, chúng tôi sẽ tỏ ra ngây thơ và "thành khẩn nhận tội vượt biên" ngay từ đầu. "Ngây thơ và thành khẩn nhận tội" như vậy, chúng tôi có được mấy điều lợi. Một, chúng tôi sẽ tạo cho công an bộ đội VC chủ quan, coi thường. Như vậy, khi gặp điều kiện thuận lợi, chúng tôi sẽ trốn trại. Hai, chúng tôi sẽ không phải gặp khó khăn khi bị VC thẩm vấn điều tra. Như vậy, chúng sẽ khó lòng phát hiện ra lý lịch và tội trốn trại của tôi, ít nhất là trong thời gian đầu giam giữ tôi. Sau khi trói tôi và T, tụi VC hơn chục đứa gồm cả người kinh lẫn người thiểu số, xúm xít giải chúng tôi về đồn công an biên phòng, cách đó khoảng một cây số. Trên đường đi, chúng đều cười nói hô hố, trong khi chúng tôi thì rầu rĩ vô cùng. Tôi tuy lo ngại cho cái quá khứ trốn trại của mình, không sớm thì muộn sẽ bị tụi VC phanh phui, nhưng vẫn còn cố giữ được vẻ điềm tĩnh. Riêng BH thì khóc xụt xịt, khiến tôi đau đớn, thương cho cháu vô cùng, nhưng không biết làm thế nào... Đồn công an biên phòng Đông Hà là một dẫy nhà tranh chạy dài, được ngăn ra làm nhiều phòng, trông rất sơ sài, tiêu điều. Chúng tôi bị giải vô một căn phòng, trong chỉ có chiếc bàn bằng cây, ghế cũng bằng cây chậy dài, được đóng dính liền với bàn. Trên trần chỉ có một ngọn đèn khoảng 50w toả ra thứ ánh sáng vàng vọt yếu ớt. Một tên bộ đội đeo lon đại uý, chỉ tay vào góc phòng, ra lệnh cho chúng tôi ngồi xuống đất. Hai tên bộ đội khác, mang 2 chiếc ba lô và chiếc túi xách của tôi để trên bàn. Kế đó, chúng lần lượt mở tung tất cả ba lô và túi xách, lấy ra tất cả mọi vật dụng để lên trên bàn. Một tên khác lấy giấy bút, rồi một tên nhặt từng món đồ, đọc to cho tên kia ghi xuống giấy. Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, ghi chép xong, chúng lại bỏ tất cả mọi thứ trở lại ba lô và túi xách. Ngồi trong góc phòng, chúng tôi bị muỗi đốt khắp cả người, nhất là mặt và hai bàn tay bị trói. BH không bị trói còn đỡ, còn tôi và T thì thật kinh hoàng, cả người luôn vặn vẹo, đầu xoay lắc liên tục, nhưng vẫn không thoát được cuộc tấn công dữ dội của cả đàn muỗi... Sau khi bỏ hết đồ đạc vô trong ba lô, tên đại uý phẩy tay ra hiệu cho mấy tên bộ đội ra ngoài. Trong phòng chỉ còn lại có 3 tên. Tên đại uý chỉ tay vô băng ghế phía bên kia, rồi hướng về phía chúng tôi nói chỏng: - Lại ngồi xuống đó. Chúng tôi lần lượt đứng dậy bước về phía chiếc ghế rồi ngồi xuống. Tôi ngồi đầu bàn, kế đó là T, sau cùng là BH. Phía bên kia, tên đại uý đứng một chân còn một chân y đặt lên ghế. Hai tên bộ đội khác không đeo quân hàm đứng hai bên. Tên đại uý hỏi: - Các anh vượt biên? Chúng tôi im lặng. Tên đại uý nhếch mép, đưa tay chỉ vô đống ba lô và túi xách của chúng tôi rồi cười khẩy: - Tất cả những thứ này là bằng chứng đủ để buộc các anh tội vượt biên. Các anh vô phương chối cãi. Vì vậy, tốt nhất là các anh nên thành khẩn nhận tội để được đảng và nhà nước khoan hồng. Chỉ vào mặt tôi, tên đại uý gằn giọng: - Sao, anh có nhận tội vượt biên hay không? Tôi thản nhiên gật đầu: - Tôi nhận. Tên đại uý mỉm cười đắc chí. Chỉ tay sang T., tên đại uý hỏi: - Còn anh, có nhận tội không? T gật đầu: - Tôi nhận. Quét ánh mắt cú vọ sang BH, tên đại uý hỏi: - Còn chị thì sao? BH xụt xịt gật đầu, không nói. Tên đại uý gật gù đắc ý: - Tốt, như vậy là các anh, chị đã tỏ ra thành khẩn nhận lỗi. Nhưng đó chỉ là bước đầu. Bây giờ tôi muốn các anh chị, mỗi người vô một phòng riêng để cung khai tất cả sự thật về chuyến vượt biên này. Các anh chị phải ghi rõ, họ tên, ngày tháng năm sinh, tên cha, tên mẹ, địa chỉ của mình, những gì các anh chị đã chuẩn bị cho chuyến vượt biên và vượt biên như thế nào, từ khi ra đi ở đâu, ngày giờ nào, cho đến khi các anh chị bị chúng tôi bắt. Nếu các anh chị khai đúng sự thực, ba người khai đều giống nhau, thì sẽ sớm được đảng và nhà nước khoan hồng, cho về với gia đình. Trái lại, nếu ngoan cố, các anh chị sẽ bị tù rục xương. Nói đến đó, tên đại uý đập tay xuống bàn đánh rầm, làm cho chúng tôi giật nảy mình. Tôi không biết BH và T có giật mình thiệt hay không, riêng tôi, tôi giả vờ giật mình, với vẻ mặt sợ sệt. Đây là vai kịch tôi đã chọn và đóng trọn vẹn vai trò ngây thơ sợ hãi của mình trong suốt những ngày tháng bị giam tại Đông Hà, cũng như trên đường chúng tôi bị giải giao về Lao Thừa Phủ ở Huế. Nhờ vậy, sau này hai tên công an giải giao chúng tôi về Huế đã chủ quan, coi thường, tạo cho tôi có cơ hội chạy thoát ngay giữa thành phố Huế, khi chúng tôi cách Lao Thừa Phủ chỉ có không đầy 100 thước. (Còn tiếp...) |
posted by
Lien Mang Viet San @
9/01/2007 07:59:00 PM |
|
|
Hồi ký: Tôi Tìm Tự Do (Kỳ 69)
|
<< Trở Lại Trang Đầu |
Hữu Nguyên
Tôi là Nguyễn Hữu Chí, sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, từng có hơn một năm phải đội nón cối, đi dép râu, theo đội quân Việt Cộng xâm lăng Miền Nam. Trong những năm trước đây, khi cuộc đấu tranh bảo vệ chính nghĩa của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Úc còn minh bạch, lằn ranh quốc cộng còn rõ ràng, tôi hoàn toàn tin tưởng và sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu, thế lực của cộng sản. Nhưng gần đây, có những dấu hiệu rõ ràng chứng tỏ, những thế lực chìm nổi của cộng sản tại Úc đang tìm cách xóa bỏ lằn ranh quốc cộng, đồng thời thực hiện âm mưu làm suy yếu sức mạnh đấu tranh của người Việt hải ngoại. Trong hoàn cảnh đấu tranh ngày càng khó khăn đó, tôi thấy mình chỉ có thể đi tiếp con đường mình đã chọn khi được quý độc giả hiểu và tin tưởng. Vì vậy, tôi viết hồi ký này, kể lại một cách trung thực cuộc đời đầy đau khổ, uất ức và ân hận của tôi khi sống trong chế độ cộng sản, cũng như những nguy hiểm, may mắn khi tôi tìm tự do.... Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn trên nhiều phương diện, lại phải vừa duy trì tờ báo, vừa tham gia các sinh hoạt cộng đồng, vừa tìm cách "mưu sinh, thoát hiểm" giữa hàng chục "lằn tên đường đạn", nên hồi ký này có rất nhiều thiếu sót. Kính mong quý độc giả thông cảm bỏ qua, hoặc đóng góp nếu có thể.
*
(Tiếp theo...)
Qua trò chuyện với những người tù địa phương, tôi biết được, trong quá khứ, họ hoặc thân nhân của họ, đều ít nhiều có dính dáng tới VC nên tất cả đều hiểu rõ bản chất của VC và không ưa gì VC. Có điều tất cả năm người đều không hề có ý định vượt biên. Để có thể thuyết phục được mọi người cùng vượt biên, tôi phải khéo léo gặp gỡ từng người, trò chuyện thăm dò và thuyết phục họ. Người đầu tiên tôi gặp gỡ là ông HK, 52 tuổi, người già nhất, có phong độ đàn anh nhất. Vì trong lán, ông HK có em trai là HV và X là cháu gọi ông bằng chú, nên tôi nghĩ nếu thuyết phục được ông cùng vượt biên, chắc chắn việc thuyết phục những người còn lại sẽ dễ dàng rất nhiều. HK có một thân hình khôi vĩ, cao to lạ lùng. Ngồi trong lán, đầu ông đụng trần lán, nên ông thường phải khom lưng. Da ông ngăm ngăm nâu, xâm trổ đầy người. Bộ râu quai nón của ông xồm xoàm, tóc ông xoăn thành từng lọn dầy, xoã xuống hai bờ vai vuông, cổ của ông bự, toàn thân ông gân guốc, bắp thịt cuồn cuộn, trông rất uy vũ. Tôi nghe X cháu của ông nói, mấy chục năm trước, ông đã khét tiếng là người đi săn giỏi nhất và là người khoẻ nhất, từng chạy từ chân núi lên đỉnh núi nhanh nhất vùng Đông Hà. Hôm đó chúng tôi phải ra ngoài trồng lúa, đến giờ trưa được nghỉ ăn cơm nửa tiếng, tôi ăn vội vàng cho xong rồi đến ngồi cạnh ông, tâm sự về cuộc đời của ông. Nghe ông kể xong chuyện ông chém chết vợ và tên công an, tôi hỏi ông: - Tội của chú vậy chắc nặng lắm? Ông gật đầu: - Nặng lắm chớ. Tôi không bị tụi nó tử hình thì cũng bị chung thân. Chém chết hai mạng người không nặng sao được. - Nhất là trong hai mạng đó có mạng một thằng công an? Ông lắc đầu: - Thằng đó "cách mạng 30" chớ công an gì nó. Nó mê vợ của tôi từ lâu, đến khi tụi VC về, nó chạy theo rồi dở trò mất dậy. Chứ trước kia, bố bảo nó cũng chả dám, chỉ đứng xa nhìn vợ tôi mà nhỏ rãi ra thôi. Tôi nhẹ nhàng thăm dò: - Nếu biết tội của chú nặng vậy, sao chú không trốn đi? Ông ngạc nhiên: - Trốn đi đâu? - Thì trốn ra ngoại quốc. Ông nghi ngờ: - Ngoại quốc là quốc nào mới được chứ? Mà tại sao tụi ngoại quốc nó lại nhận mình? Nhận mình đâu có được ích gì. Tôi liền giải thích ngắn gọn cho ông hiểu, nếu mình trốn ra ngoại quốc trong tư cách là người tỵ nạn chính trị thì sẽ được các quốc gia khác tiếp nhận và cho đi định cư ở quốc gia tự do như Mỹ, Canada, Úc... Tôi cũng kể cho ông biết hàng trăm ngàn người Việt đã vượt biên tỵ nạn hiện được định cư tại các quốc gia đệ tam. Nghe rồi, ông đăm chiêu cho biết: - Chú mày nói vậy thì tôi biết vậy. Nhưng bỗng dưng mình tay trắng, chẳng có một thứ gì, đến quấy rầy họ mà họ nhận thì tôi thấy khó tin quá. Tôi ghét cộng sản thì ghét thật, nhưng bảo ghét như vậy là mình trở thành tỵ nạn chính trị thì nghe không lọt tí nào. Chính trị là mình phải nổi loạn, làm đảo chánh, chiếm đoạt chính quyền... Tôi nói: - Tỵ nạn chính trị nó có nhiều loại lắm chú ơi. Có loại nổi loạn, đảo chánh, lật đổ chính quyền, nhưng cũng có loại mình bị chính quyền sở tại trù dập, o ép, kỳ thị khiến mình mất tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, thì mình cũng có quyền xin tỵ nạn chính trị. - Chú mày nói vậy thì cả cái Miền Nam này ai cũng là tỵ nạn chính trị được sao? Tôi gật đầu: - Chú nói đúng. Tụi VC nó xâm lăng Miền Nam, khiến mọi người bây giờ đều bị cộng sản nó đì, người thì phải đi vùng kinh tế mới, người bị bắt vô trại cải tạo, cuộc sống cực khổ, thiếu thốn, không được tự do thờ phụng, làm ăn, học hành, nên ai cũng có quyền xin tỵ nạn chính trị được. Vì vậy chú thấy đó, hễ ai trốn ra được ngoại quốc là đều được ngoại quốc người ta công nhận mình là tỵ nạn ráo trọi. Cái khó là mình có trốn ra được ngoại quốc để xin tỵ nạn hay không. Ông gật gù: - Ai trốn ra ngoại quốc thì khó, chứ với tụi này, chuyện đó dễ ợt. Tôi ngạc nhiên: - Chú nói sao mà dễ ợt? - Thì ở đây dân chúng vẫn đi sang Lào buôn bán làm ăn, kể cả buôn đồ lậu như cơm bữa. Chui vào rừng, đi đường tắt chỉ nội một đêm là đến biên giới. Sang bên kia biên giới là Lào. Như vậy không dễ ợt là gì? Tôi ngây thơ: - Nhưng bây giờ mình đang ở trong tù, làm sao chui vô rừng mà đi được? Ông trầm ngâm một lúc rồi nói: - Nếu xin tỵ nạn chính trị quả thực dễ dàng như chú mày nói, thì để tôi tính với thằng HV xem. Nó là em tôi, tôi bảo gì là nó nghe nấy. Nhưng tôi thì vợ chết, chẳng còn ai thân thuộc, muốn đi đâu cũng được, miễn sống thì thôi. Còn nó có vợ con, chuyện đi đứng chẳng dễ dàng, phải hỏi qua nó một câu. Nếu nó đồng ý, thì thằng X, cháu tôi cũng dễ. Nó chưa vợ con gì, tôi đi đâu là nó đi theo đấy. Còn hai thằng kia, một thằng tôi bảo nó được, vì nó cũng là em út tôi thôi. Tôi chỉ ngại có thằng còn lại là thằng H... Tôi lo lắng nhưng im lặng không nói. Ông HK nhìn tôi ngần ngừ một thoáng rồi tiếp: - Thằng H bố nó đi theo tụi VC rồi chết mất xác. Nó thì trước đây làm giao liên cho huyện đội, phạm tội ăn trộm thuốc nổ nên bị bắt. Tính khí nó nhát, nên khi bị bắt, bị tụi VC nó doạ dẫm là nó khai tầm bậy tậm bạ làm luỵ không biết bao nhiêu người. Mình muốn trốn thoát thì phải rủ cả nó đi theo. Sợ tôi, nó sẽ nhận lời đi theo đấy. Nhưng nếu gặp tụi công an, bộ đội hù doạ là nó sợ, nó dám làm đổ bể mọi chuyện lắm. Tôi thăm dò: - Ngoài cách rủ nó đi theo, mình còn cách nào khác không, chú? Ông trầm ngâm một chút rồi thong thả: - Còn một cách nữa là không nói gì cho nó biết. Đợi đến đêm mình định trốn đi, mình mới rủ nó. Nó chịu thì cho nó đi cùng. Nó không chịu thì trùm mền, bịt miệng rồi trói gô cổ nó lại. Tôi lo ngại. Vì cách đó xem ra cũng không phải là tuyệt hảo. Ông HK thở dài tiếp: - Chú mày đừng nghĩ ngợi làm gì, để tôi tính cho. Chuyện đó cứ để từ từ. Trước mắt là để tôi suy nghĩ rồi bàn với thằng HV xem thế nào đã. Sau khi nói chuyện với ông HK, tôi thấy có nhiều hy vọng cho cuộc vượt ngục của chúng tôi. Nếu ông HK thực sự nhập cuộc, thì với sức khoẻ, tuổi đời, kinh nghiệm đi rừng và khả năng thông thuộc địa hình rừng núi vùng Đông Hà của ông, ông sẽ giúp chúng tôi vượt qua biên giới Lào Việt dễ dàng. Điều khó khăn nhất hiện nay là làm sao thuyết phục được ông tin tưởng, một khi ra ngoại quốc, ông sẽ được công nhận tư cách tỵ nạn chính trị. Khó khăn thứ hai là làm sao rủ rê để H cùng đi theo. Ba ngày sau, ông HK gặp tôi cho biết, cả ba người đều đồng ý sẽ vượt ngục. Nghe vậy tôi mừng quá. Hỏi H thế nào thì ông bảo, ông chưa hỏi ý kiến vì sợ y sẽ để lộ bí mật. Theo kế hoạch của ông, vào đêm vượt ngục, khoảng 2 giờ sáng, ông sẽ đánh thức H và cho y biết quyết định vượt ngục cũng chưa muộn. Nếu y chấp thuận, thì cùng đi theo. Còn nếu y không chấp thuận, chúng tôi sẽ trói y lại, để sau này, y khỏi bị mắc tội liên luỵ, đồng loã với những người vượt ngục. Sau khi trói H, chúng tôi chỉ cần nhấc một tấm nhôm lên, là có thể chui xuống tầng hầm bên dưới, rồi phá cửa hầm, vượt thoát ra ngoài dễ dàng. Ngay khi thoát ra ngoài, HV và X sẽ chạy về nhà để mang vợ con của HV và lấy lương thực cùng những thứ cần thiết. Rồi tất cả sẽ gặp nhau tại một điểm hẹn trong rừng, chỉ có ông HK và HV biết. Nghe kế hoạch của ông HK tôi tỏ ra lo ngại việc HV và X chạy về nhà mang vợ con theo. Ông HK tự tin trấn an tôi: - Chú mày yên tâm. Ra khỏi đây rồi, tụi tôi sẽ không khác gì hổ về rừng. Tụi nó có thiên binh vạn mã cũng không tài nào bắt nổi tụi này. Cứ để cho thằng HV nó về mang vợ con theo. Không cho nó về, nó đâu có chịu đi. Vả lại mình cũng cần mang theo chút ít lương thực, vũ khí để khi đi rừng, nhỡ gặp thú dữ như hổ báo còn có thứ đối phó. Chúng nó đi về nhà chỉ mất có mấy thôi dao thôi mà. Ông HK cũng giải thích cho tôi hiểu, mỗi thôi dao là một đoạn đường một người cầm dao thấy mỏi, phải chuyển sang tay khác. Khoảng cách như vậy tương đương khoảng 500 thước. Nghe ông HK nói vậy, tôi cũng yên tâm. Còn trường hợp của T, tôi cũng cho ông biết: - Chú xem có thể giúp T cứu BH ra khỏi lán tù được không? Vì nếu không cứu được BH để BH đi cùng thì T sẽ không chịu trốn theo mình. Chuyện này cả tôi và T đã nói với ông HK từ trước, nên ông trả lời ngay: - Yên trí, thằng X sẽ lo chuyện đó. Chỉ cần bảo BH tối hôm đó nhớ thức chờ người mở cửa, rồi nhẹ nhàng chui ra là xong. Xem ra kế hoạch vượt ngục đã được hoạch định khá chu đáo và đơn giản. Trông vóc dáng uy vũ của HK cùng thái độ điềm tĩnh, tự tin của ông, tôi rất mừng, đinh ninh mọi chuyện sẽ trôi qua chót lọt. Không ngờ vào một buổi trưa, đang lao động ở ngoài rừng, HK đến gần tôi, vừa lúi húi làm vừa nói nhỏ: - Chuyện đó bể rồi.... Tôi điếng người. Đưa mắt nhìn lẹ chung quanh, thấy mấy tên bộ đội ở xa không để ý, tôi vội hỏi: - Đổ bể thế nào, chú? Sau một lúc im lặng cắm cúi làm việc, ông mới chậm rãi nói: - Thằng H nó biết hết chuyện rồi. Tôi ngạc nhiên: - Ủa, sao nó biết? - Chiều qua lúc ăn cơm ở ngoài lán, thằng HV và thằng X nói chuyện với nhau làm sao đó, nó nghe lỏm được hết. Tôi bồn chồn lo lắng: - Bây giờ mình phải làm sao? Ông HK gằn giọng: - Tôi đã cảnh cáo thằng H rồi. Nó mà léng phéng bẩm báo, là tôi cắt cổ. - Nó nói sao? - Nói gì. Nó sợ muốn ỉa ra quần, mặt mũi tái xanh, cắt không còn hạt máu. - Nhưng đó là trước mặt chú. Sau mặt chú, nó đi bẩm báo thì mình đâu biết. - Tôi đã giao cho thằng HV nhiệm vụ theo dõi sát thằng H. Hễ nó đi đâu là theo sát nó đến đó. Nó cũng ngán thằng HV một cây. Bảo đảm từ giờ đến sáng mai là nó không thoát khỏi sự kiểm soát theo dõi của mình. Tôi lo ngại: - Còn ngày mai? - Ngày mai, nếu tụi công an gọi nó đi làm việc riêng, không có mình đi theo, thì mình đành chịu. Hay nó có ám hiệu riêng với tụi công an, để tụi công an gọi riêng nó ra một chỗ, thì mình cũng bó tay. Tôi ngập ngừng đề nghị: - Nếu vậy, tại sao mình không trốn ngay tối nay? Ông HK lắc đầu: - Không được. Tối nay sáng trăng, trốn rất nguy hiểm. Trước khi bỏ đi, ông HK trấn an tôi: - Chú mày cứ an tâm. Mọi chuyện cứ từ từ để tôi tính. Từ giờ đến tối mình nhớ theo dõi sát thằng H, đừng để cho nó lại gần tụi công an, bộ đội. Tối về lán mình sẽ lo thuyết phục thằng H. Nó không nghe thì mình có cách. Suốt buổi làm chiều hôm đó, tôi lo ngại coi chừng thằng H, mặc dù tôi biết, cả ông HK lẫn HV lúc nào cũng kèm sát bên thằng H. Bữa cơm chiều hôm đó, ông HK không cho thằng H đi lấy cơm, lấy nước. Ông bắt nó ngồi im trong lán chờ mọi người bưng cơm nước vô "hầu" nó. Thằng H lo ngại ra mặt, bộ điệu nhấp nhổm không yên, nhưng vì khiếp hãi uy vũ của ông HK, nên thằng H đành phải chịu trận ngồi bó gối trong lán. Giữa lúc chúng tôi đang bồn chồn lo lắng, chờ bữa cơm tối, bỗng tên thiếu uý Biểu đi lại, the thé quát: - Thằng H chui đâu rồi? Chúng tôi giật mình lo ngại, nhưng ai cũng giả vờ ú ớ quay ngang quay ngửa tìm kiếm. Ai cũng mong tên thiếu uỷ Biểu bỏ đi chỗ khác. Nhưng không. Sau khi quét cặp mắt cú vọ nhìn tất cả mọi người ngồi bên ngoài lán chờ cơm, không thấy H đâu, tên thiếu uý Biển bước đến cửa lán cúi đầu ngó vào trong quát to: - Ê H, mày ra đây tao biểu. Chúng tôi lạnh người nhìn nhau lo ngại. Nếu thằng thiếu uý Biển lôi H đi khỏi đây, chắc chắn H sẽ bẩm báo chuyện chúng tôi đang dự tính vượt ngục. Như vậy tai hoạ sẽ đổ ập xuống đầu chúng tôi và hậu quả sẽ nguy hiểm không biết đâu mà lường. Ngó H lồm cồm chui ra khỏi hầm, chúng tôi sợ điên người, không biết cách nào để ngăn chặn không cho H đi theo tên thiếu uý Biển. Nhưng cuộc đời nhiều khi có những may rủi bất ngờ, vượt xa mọi sự tính toán của con người. Khi H vừa chui ra khỏi cửa lán, tên thiếu uý Biển không nói không rằng, nhanh chóng lùi lại một bước, khẽ xoay nửa người, rồi vung ngược cánh tay phải, làm một quả đấm móc chớp nhoáng vào cằm thằng H. Tôi chỉ nghe một tiếng "rắc" vang lên khô khốc kèm theo tiếng rú của H, và thấy H bật ngửa người đè vào một bên cửa lán. Ngay khi cú đấm thôi sơn vừa trúng cằm H, tên Biển đã bước lên một bước, chân trái đứng tấn, chân phải tung ra cú đá vào ngay bụng H. Tôi chỉ kịp nghe H kêu lên một tiếng "ối", đã thấy H gập người làm đôi, rồi cả người H bị bắn tung vào trong lán như một trái banh bị một cầu thủ thiện nghệ đá lọt vô gôn. Cúi người vô cửa lán, tên Biển cầm chiếc đèn bấm chiếu vào H đang nằm quằn quại trong lán, miệng hét: - Sáng mai mày sẽ biết tay tụi tao, H ạ. Nói xong, tên Biển lạnh lùng bỏ đi. Chúng tôi nhìn nhau, không biết đầu đuôi câu chuyện ra sao. Ông HK nhìn HV gật đầu. HV vội vàng chui vô lán chăm sóc và thăm dò H. (Còn tiếp...) |
posted by
Lien Mang Viet San @
9/01/2007 07:54:00 PM |
|
|
Hồi ký: Tôi Tìm Tự Do (Kỳ 68)
|
<< Trở Lại Trang Đầu |
Hữu Nguyên
Tôi là Nguyễn Hữu Chí, sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, từng có hơn một năm phải đội nón cối, đi dép râu, theo đội quân Việt Cộng xâm lăng Miền Nam. Trong những năm trước đây, khi cuộc đấu tranh bảo vệ chính nghĩa của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Úc còn minh bạch, lằn ranh quốc cộng còn rõ ràng, tôi hoàn toàn tin tưởng và sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu, thế lực của cộng sản. Nhưng gần đây, có những dấu hiệu rõ ràng chứng tỏ, những thế lực chìm nổi của cộng sản tại Úc đang tìm cách xóa bỏ lằn ranh quốc cộng, đồng thời thực hiện âm mưu làm suy yếu sức mạnh đấu tranh của người Việt hải ngoại. Trong hoàn cảnh đấu tranh ngày càng khó khăn đó, tôi thấy mình chỉ có thể đi tiếp con đường mình đã chọn khi được quý độc giả hiểu và tin tưởng. Vì vậy, tôi viết hồi ký này, kể lại một cách trung thực cuộc đời đầy đau khổ, uất ức và ân hận của tôi khi sống trong chế độ cộng sản, cũng như những nguy hiểm, may mắn khi tôi tìm tự do.... Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn trên nhiều phương diện, lại phải vừa duy trì tờ báo, vừa tham gia các sinh hoạt cộng đồng, vừa tìm cách "mưu sinh, thoát hiểm" giữa hàng chục "lằn tên đường đạn", nên hồi ký này có rất nhiều thiếu sót. Kính mong quý độc giả thông cảm bỏ qua, hoặc đóng góp nếu có thể.
*
(Tiếp theo...)
Tối hôm đó, tôi phải mất hơn 1 tiếng đồng hồ để viết xong bản "tự khai". Cầm bản "tự khai" của tôi, tên thiếu úy không hề đọc một chữ, chỉ hỏi: - Anh khai báo thế này có thành thật không đó? Tôi trả lời với giọng đầy vẻ ăn năn, hối hận: - Thưa ông, tôi dại dột nghe người ta xúi dại nên vượt biên, chứ quả thật, tôi chẳng biết gì. Nay tôi rất ăn năn nên đã thành thật khai báo đầy đủ để được cách mạng khoan hồng... Tên thiếu úy nhếch mép: - Anh nói làm như tụi tôi ngu lắm. Trong ba người, anh lớn tuổi nhất, chỉ nhìn qua cũng biết anh là người cầm đầu. Chính anh xúi dại hai người kia, chứ ai xúi dại anh? Tôi sợ sệt: - Dạ ông nói rất đúng. Chính tôi đã rủ rê hai người kia. Nhưng người xúi dại tôi thì lại là người khác. Tên thiếu úy hách dịch: - Người đó là ai? Anh có khai tên tuổi người đó rõ ràng trong bản "tự khai" này không? Tôi nói giọng thành khẩn, pha chút sợ sệt: - Thưa ông có. Tôi đã khai đầy đủ tất cả trong này. Tên thiếu úy phẩy tay: - Được rồi. Nói vậy biết vậy. Thành thật hay không, mai này sẽ biết. Thành thật thì được khoa hồng. Không thành thật thì bị trừng trị đích đáng. Bây giờ anh ngồi im đây chờ. Nói xong, tên thiếu uý đi ra ngoài, sau khi đóng cửa và khóa cẩn thận. Ngồi trong căn phòng nhỏ hẹp, mỗi chiều khoảng ba thước, dưới ngọn đèn điện vàng vọt, tôi thấy chán nản vô cùng. Như vậy là kể từ khi trốn thoát trại tù cải tạo ở chân núi Bà Đen cho đến nay, tôi mới được tự do có mấy tháng trời. Bây giờ, bị bắt lại, tương lai của tôi thật cực kỳ bi đát. Trước mắt, trong vài tuần lễ đầu, VC có thể không biết rõ lai lịch của tôi, nên cuộc sống của tôi trong tù có thể tạm ổn. Nhưng sau này, qua điều tra, phối kiểm tin tức, chúng sẽ biết rõ tôi là ai và khi ấy, tôi khó có thể thoát khỏi án tử hình, hoặc chung thân. Vì vậy, tôi chỉ có một con đường duy nhất, phải trốn trại tù này bằng mọi giá, và phải trốn trước khi chúng kịp phanh phui ra lý lịch của tôi. Tôi biết, từ đây đến biên giới Việt Lào chỉ khoảng 50 cây số đường chim bay. Nếu trốn ra khỏi trại tù này, tôi chỉ cần hai ngày đêm cắt rừng là có thể sang được đất Lào an toàn. Vấn đề quan trọng nhất bây giờ là làm sao tôi có thể trốn thoát khỏi trại tù Đông Hà? Tôi hy vọng, trong những ngày đầu, khi chưa biết rõ lý lịch của tôi, VC sẽ chỉ coi tôi là một thanh niên thuần tuý vì nghe người khác xúi dục, nên vượt biên. Như vậy, chúng sẽ lơ là canh gác, thuận tiện cho việc tôi vượt ngục. Đang nghĩ ngợi liên miên, thì có tiếng xích sắt loảng xoảng, rồi cửa mở. Tên thiếu uý lúc nãy xuất hiện, tay vung vẩy mấy chiếc còng. Hắn bảo tôi: - Đưa tay đây. Tôi ngoan ngoãn đưa tay cho hắn còng. Còng xong, hắn đẩy tôi ra ngoài cửa. Đứng chờ sẵn ở bên ngoài có hai tên công an, mặt mũi lầm lì, súng AK-47 hườm sẵn bên hông. Để tôi đứng đó cho hai tên công an canh, tên thiếu uý bước vô phòng kế, còng T đem ra ngoài. Bước vô phòng thứ ba, tên thiếu uý mang BH ra ngoài, nhưng BH thì không bị còng. Xong, tên thiếu uý và hai công an giải chúng tôi đi trên những con đường quanh co ở triền đồi. Trời đêm đầy sao, rừng núi trùng điệp bao bọc chung quanh, khí lạnh lan tỏa, nhưng tôi vẫn thấy thoang thoảng đâu đây một mùi hoa, nhưng không rõ là hoa gì. Khủng cảnh thật là u mặc, hư hư thực thực, khiến tôi bâng khuâng xót xa cho số phận của người, của mình... Đi khoảng 15 phút, chúng tôi thấy hiện ra trước mắt một dẫy lán lụp sụp, lán nào lán nấy cao chỉ hơn một thước, chiếc nọ cách chiếc kia khoảng 5 thước. Trời lúc đó đã khuya, nhưng nhờ ánh sao, tôi cũng thấy được trong lán có nhốt người. Đến trước cửa một chiếc lán, tên thiếu uý ra hiệu cho mọi người đứng lại, rồi y lấy chìa, loay hoay mở khóa. Mang tiếng là cửa, sự thực đó chỉ là những khúc cây sần sùi, còn nguyên cả vỏ được ghép lại bằng dây kẽm gai, bằng đinh và bằng gỗ. Tuy cánh cửa được làm một cách thô sơ, rừng rú, nhưng chắc chắn, kiên cố vô cùng. Mở khóa xong, kéo cánh cửa cây sang bên, tên thiếu uý quay lại chỉ vào mặt BH, rồi nói: - Chị đi vô... BH dúm người sợ hãi. Từ bé đến lớn, ăn học ở Sàigòn, BH chưa bao giờ sống xa người thân. Nay trong hoàn cảnh tù ngục, lại phải sống giữa núi rừng âm u, làm sao BH có thể sống cô đơn một mình được. BH hoảng hốt năn nỉ tên thiếu uý: - Chú... làm ơn cho chúng tôi ở chung một lán. Tên thiếu uý lắc đầu: - Hừ, chung một lán? Làm gì có chuyện đó. Chị phải biết, đây là trại tù chứ không phải quán trọ. Nam giam riêng, nữ giam riêng, nghe rõ chưa? Nói đến đó, tên thiếu uý gằn giọng: - Đi vô! BH kinh hoàng quay sang tôi và T, khóc nức nở. Tên thiếu uý quát to: - Có đi vô không thì bảo. Không là chúng tôi phải xử lý biện pháp mạnh. Lúc đó thì đừng có trách. Nói xong, tên thiếu uý nhìn viên công an gật đầu. Lập tức tên công an bước lên một bước, thúc mũi súng AK vô lưng BH. Cả thân thể rung lên, BH hoảng hốt òa khóc, cố bệu bạo nói cái gì, tôi nghe không rõ. Vừa nói, BH vừa cúi người chui vô trong lán. Tên thiếu uý loay hoay khóa cửa, trong khi tiếng khóc của BH vang lên trong đêm khuya nghe thật não nùng, đau đớn. Nghe tiếng khóc, T đứng im chịu trận, đầu cúi xuống, gương mặt thiểu não đầy vẻ chịu đựng trong đau khổ và bất lực. Sau khi tống giam BH xong, viên thiếu uý đưa chúng tôi vô một chiếc lán khác cách đó không xa. Chui vô trong lán, tôi mới có dịp quan sát kỹ lưỡng. Lán rộng mỗi chiều khoảng 5 thước, chung quanh, trên nóc và cửa ra vô đều làm bằng những khúc cây to bằng bắp vế chân, có chằng giây kẽm gai kiên cố. Riêng sàn lán làm bằng những miếng nhôm có chiều ngang khoảng thước hai, bề dầy khoảng 15 phân, bề dài suốt chiều ngang của lán. Phía dưới sàn là một căn hầm, cửa hầm cũng làm bằng cây, nhưng tương đối sơ sài so với cửa lán. Điều thê thảm nhất là những lán tù này chỉ có chiều cao khoảng hơn thước. Vì vậy, khi vô lán, chúng tôi phải chui. Vô trong lán thì chỉ được ngồi hoặc nằm. Người nào cao thì khi ngồi, đầu cũng gần đụng trần lán. Kiểu cấu trúc này thật dã man, khiến chúng tôi mất luôn thói quen đi đứng, chạy nhảy cho khí huyết lưu thông; và khi mỏi lưng, chúng tôi chỉ còn cách nằm dài ra mà vươn vai, co chân co tay. Trại giam Đông Hà chỉ là trại tạm giam. Những người bị giam ở đây gồm có hai thành phần chính. Một là những người vượt biên theo đường bộ. Hai là những người phạm tội hình sự chưa thành án. Tất cả đều chờ đợi để đưa về trại giam của tỉnh Quảng Trị, hoặc đưa về lao Thừa Phủ ở Huế. Vì vậy, mọi khai báo, lấy khẩu cung, chỉ có tính hình thức. Ban quản giáo của trại giam không hề quan tâm đến chuyện khai đúng, khai sai, mà chỉ biết giam giữ tù nhân thật cẩn thận, chờ ngay có lệnh, giải giao đến nơi đến chốn tới những nơi được yêu cầu. Do nhu cầu sản xuất của trại giam Đông Hà, tù nhân chúng tôi cũng phải đi lao động ngoài rừng. Công việc chủ yếu chúng tôi phải làm là chặt cây, đốt than, trồng khoai mì, thu hoạch chuối, và cuốc đất trồng lúa, trên những thửa ruộng bậc thang, hoặc trong những thung lũng. Tất cả những lần ra ngoài lao động, đều có bộ đội hoặc công an canh gác rất cẩn mật. Như đã suy tính từ trước, ngay khi chui vô trong lán, tôi đã nghĩ ngay kế vượt ngục. Qua theo dõi một thời gian ngắn, tôi thấy tôi chỉ có thể vượt ngục bằng hai cách. Cách thứ nhất là vượt ngục ngay khi đi lao động. Vượt ngục cách này thì thuận tiện, vì chỉ cần lợi dụng lúc bộ đội, công an, sơ ý, mình liều mạng bỏ chạy vô rừng là thoát. Tuy nhiên, vượt ngục kiểu này rất nguy hiểm, vì chỉ cần một giây phút sơ sểnh là bị bắn bỏ mạng. Qua câu chuyện của những bạn tù, tôi được biết, trong quá khứ, đã có nhiều người bị bắn chết khi chạy trốn trong lúc đang lao động trong rừng. Vì là một trại giam ở địa phương, giáp với biên giới Việt Lào, nên đa số tù hình sự ở đây cũng rất liều mạng. Họ sẵn sàng vượt ngục, chạy sang bên Lào lánh nạn một thời gian, rồi lại tiếp tục làm ăn ở một buôn, bản nào đó, hoặc ở bên Lào, hoặc ở bên Việt Nam. Cách thứ hai là vượt ngục lúc đêm khuya. Cách này xem ra thì có vẻ khó khăn hơn, nhưng lại an toàn hơn. Lý do là vào buổi tối, ỷ y những căn lán được xây dựng một cách kiên cố, bộ đội công an, canh gác tù rất lơ là. Như vậy, nếu trốn khỏi được lán tù, chúng tôi chỉ mất có 15 phút đến nửa tiếng là trốn được vào rừng. Khi đó, trời tối đen như mực, cộng với rừng rậm, sẽ giúp chúng tôi dễ dàng thoát khỏi mọi cuộc truy lùng. Điều quan trọng nhất là làm sao có thể trốn thoát khỏi lán tù, mà mọi người tù trong lán, không hề hay biết, hoặc tất cả đều chấp nhận trốn cùng với mình. Như tôi đã nói ở trên, do cấu trúc của lán tù rất đặc biệt, nên cửa ngõ duy nhất có thể trốn thoát là chui xuống căn hầm ở dưới sàn lán. Vì ở tầng dưới, nước ngập lầy lội, nên cửa hầm làm rất sơ sài. Nếu chúng tôi có thể trốn được xuống dưới tầng hầm, thì việc phá cửa hầm là điều không có khó. Điều khó là làm sao trong đêm khuya có thể chui xuống dưới hầm, vì tất cả những tấm nhôm lót sàn lán đều chạy dài suốt chiều ngang của lán, và trên đó, mọi người tù đều nằm đè lên trên. Nói như vậy có nghĩa, nếu muốn trốn xuống dưới hầm, chúng tôi phải nâng ít nhất là một tấm nhôm, mà mọi người trong lán đều phải nằm ngang, đè lên trên tấm nhôm đó. Như vậy, tất cả những người tù trong lán phải chấp nhận, ngoảnh mặt làm ngơ cho chúng tôi trốn, hoặc chấp nhận cùng trốn với tụi tôi. Tôi biết, chuyện mọi người nhắm mắt làm ngơ cho chúng tôi trốn, để rồi sau đó họ phải gánh chịu mọi liên luỵ với cái tội đồng lõa là điều không bao giờ xảy ra. Vì vậy, chúng tôi chỉ còn cách thuyết phục những người tù hình sự cùng giam trong lán tù, cùng chấp nhận vượt ngục. Trong lán tù của chúng tôi lúc đó có tất cả 7 người. Ngoài hai đứa chúng tôi, 5 người còn lại đều là người địa phương. Người trẻ nhất tên H mới có 17 tuổi, phạm tội ăn trộm 20 kí lô thuốc nổ của huyện đội Đông Hà để đánh cá dưới suối. Người lớn tuổi nhất tên HK, 52 tuổi, phạm tội chém chết vợ và một tên công an khi tên này ngoại tình với vợ HK. Còn anh HV, 36 tuổi, em trai của HK thì bị ghép tội hành hung và ngăn chận không cho công an thi hành nhiệm vụ, bắt giữ HK. HV cũng đã dùng mác đâm bị thương một người công an khi công an bao vây bắt giữ HK. Người thứ tư là X, 18 tuổi, gọi HK bằng chú, phạm tội ăn trộm súng của một đơn vị bộ đội đồn trú trong nhà của X, rồi đem súng đi bắn khỉ. Trong tù, X rất thương yêu tôi, và rất khoái nghe tôi kể chuyện kiếm hiệp. Còn một người nữa, lâu ngày tôi không nhớ tên cũng như tội mà người đó bị cáo buộc, nên không nói đến ở đây. Trong số những người cần phải thuyết phục vượt ngục, người đầu tiên là T. Vì tình yêu tha thiết dành cho BH nên T trước sau một mực, chỉ chấp nhận vượt ngục với tôi nếu có BH đi theo. Trong một buổi đi làm ngoài trời, chỉ có tôi và T, tôi nói: - Tình thế này, không sớm thì muộn, chúng sẽ đưa mình về lao Thừa Phủ. Về đó rồi thì mình vô phương trốn thoát. Vì vậy, nếu mình có trốn thì phải trốn ở đây. T nghĩ thế nào, dám trốn không? T trầm tư một lúc rồi nói: - Cháu nghĩ hoàn cảnh của cậu rất nguy hiểm nên cậu có trốn thì trốn ngay đi, không sau này chúng biết rõ cậu là ai, chúng sẽ xử bắn cậu mất. Còn cháu, cháu phải ở lại với BH. Cháu không thể nào bỏ BH mà trốn đi một mình được. Nói đến đó, T rơm rớm nước mắt: - Nếu biết tình cảnh hôm nay như thế này, cháu với BH chả dám đi vượt biên với cậu. Thiệt chỉ vì chúng cháu mà cậu bị vạ lây. Nghe T nói vậy, tôi cũng rất xúc động. Nhưng hoàn cảnh hiện tại không phải là lúc để cho người này hay người kia nhận lỗi về mình. Bây giờ là lúc phải tìm cách trốn tù bằng mọi giá và trốn càng sớm thì càng bớt nguy hiểm. Tôi nôn nóng nói với T: - Tình cảnh ngày hôm nay, cậu cũng rất ân hận vì đã không làm tròn được trách nhiệm đối với hai cháu. Cậu thấy có lỗi đối T và BH. Nhưng cho đến bây giờ, tụi nó chỉ đinh ninh mình là những người ngây thơ nghe người ta xúi dại mà đi vượt biên, nên rất thuận lợi cho mình vượt ngục. BH dù sao cũng là con gái, có bị kẹt lại cũng chỉ ở tù vài tháng là được ra. Hơn nữa, má của BH hay tin, sẽ tìm cách xoay sở cho BH ra sớm. Tôi tin chắc BH chỉ ở tù 3 tháng là cùng. T im lặng một lúc rồi nói, giọng cương quyết: - Nếu cậu muốn cháu trốn tù cùng với cậu, cậu phải tìm cách cho BH trốn tù cùng với cháu. Còn không, cháu chấp nhận để cậu trói chặt chân tay cháu, rồi để cháu lại trong lán, cho cháu được ở lại cùng chia sẻ hoạn nạn với BH... Thấy T cương quyết như vậy tôi vừa lo vừa mừng vừa khâm phục. Cũng vì thấy T một lòng một dạ yêu BH như thế, sau này, bàn bạc với mấy anh em trong tù, tôi đã cố gắng thuyết phục, để tất cả đều đồng ý, sau khi trốn khỏi lán tù, chúng tôi sẽ sang lán của BH, tìm cách cứu BH để BH cùng đi. (Còn tiếp...) |
posted by
Lien Mang Viet San @
9/01/2007 07:53:00 PM |
|
|
|
Liên Kết |
|
|
|
Bạn là người thứ
Ghé Thăm LMVS |
|
|