Hồi ký: Tôi Tìm Tự Do (Kỳ 59)
Bài Viết
Đăng Nhập vào: Sunday, July 01, 2007
|
<< Trở Lại Trang Đầu |
Hữu Nguyên
Tôi là Nguyễn Hữu Chí, sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, từng có hơn một năm phải đội nón cối, đi dép râu, theo đội quân Việt Cộng xâm lăng Miền Nam. Trong những năm trước đây, khi cuộc đấu tranh bảo vệ chính nghĩa của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Úc còn minh bạch, lằn ranh quốc cộng còn rõ ràng, tôi hoàn toàn tin tưởng và sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu, thế lực của cộng sản. Nhưng gần đây, có những dấu hiệu rõ ràng chứng tỏ, những thế lực chìm nổi của cộng sản tại Úc đang tìm cách xóa bỏ lằn ranh quốc cộng, đồng thời thực hiện âm mưu làm suy yếu sức mạnh đấu tranh của người Việt hải ngoại. Trong hoàn cảnh đấu tranh ngày càng khó khăn đó, tôi thấy mình chỉ có thể đi tiếp con đường mình đã chọn khi được quý độc giả hiểu và tin tưởng. Vì vậy, tôi viết hồi ký này, kể lại một cách trung thực cuộc đời đầy đau khổ, uất ức và ân hận của tôi khi sống trong chế độ cộng sản, cũng như những nguy hiểm, may mắn khi tôi tìm tự do.... Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn trên nhiều phương diện, lại phải vừa duy trì tờ báo, vừa tham gia các sinh hoạt cộng đồng, vừa tìm cách "mưu sinh, thoát hiểm" giữa hàng chục "lằn tên đường đạn", nên hồi ký này có rất nhiều thiếu sót. Kính mong quý độc giả thông cảm bỏ qua, hoặc đóng góp nếu có thể.
*
(Tiếp theo...)
Nghe chị của tôi năn nỉ cho hai cháu đi vượt biên với tôi, tôi không biết nói làm sao, nên cuối cùng, tôi đành nhận lời. Tôi nói: - Chị đã nói vậy, thì em phải vâng lời chị. Nhưng em cũng xin thưa với chị...
Không chờ tôi nói hết, chị tôi mừng quá, nắm chặt tay tôi: - Cảm ơn cậu đã thương chị mà nhận lời giúp cho hai cháu. Cậu muốn gì, cậu cứ nói. Chị sẵn sàng làm theo ý của cậu...
Sự thực, trong suốt thời gian kể từ khi cộng sản chiếm đóng Sàigòn, chị tôi đã nhiều lần lo cho các cháu vượt biên, nhưng không thành công. Chị tháo vát, quen biết nhiều, giao du rộng rãi, nên chuyện móc nối cho các cháu vượt biên là chuyện không khó. Nhưng lạ một điều, hễ lo cho thiên hạ đi thì chót lọt, nhưng chuyến đi nào có các cháu thì lại bị kẹt không vì chuyện này cũng vì chuyện khác. Đến khi tôi vượt ngục về đến nhà, điều khiến chị lo lắng nhất là cháu H. và người yêu của cháu, nghe chị nói cũng đang trong tình trạng trốn cải tạo. Vì vậy chị đang cố gắng bằng mọi giá để lo cho hai cháu đi, nhưng chưa được.
Nhìn ánh mắt van nài của chị, tôi buột miệng thú thực sự lo lắng của mình: - Chuyện em muốn thưa với chị là nếu em cho hai cháu đi theo em, thế nào tụi em cũng bị bắt...
Chị tôi la lên, vội lấy tay bịt miệng tôi không cho tôi nói: - Cậu nói gì mà nói gở vậy? Chưa đi mà nói vậy...
Tôi im lặng không hề phản ứng. Chị tôi thở dài, bỏ tay xuống rồi nói, giọng có vẻ lẫy: - Cậu đã nói vậy thì chị cũng chẳng ép. Thôi thì cậu cứ đi một mình cho an toàn... đừng gồng gánh thêm của nợ mà làm gì. Cuộc đời của chị, từ khi xa mẹ, chỉ thấy toàn là cô đơn buồn tủi...
Nói đến đó, chị tôi úp mặt vào hai bàn tay, khóc nức nở. Tôi ngồi đó im lặng. Kể từ khi vô Nam, được gặp chị, tôi đã nhiều lần được nghe chị tâm sự về cuộc đời của chị trong nước mắt và tiếng khóc. Cũng giống như phần đông những người phụ nữ Việt Nam, hạnh phúc gia đình, tình thương yêu thuỷ chung của chồng, luôn luôn vắng bóng trong cuộc đời của chị. Rồi những gian nan của cuộc đời, sóng gió của xã hội, luôn luôn vùi dập cuộc đời của chị. Và bao giờ cũng vậy, ngồi nghe những chuyện buồn của cuộc đời chị, tôi lại đau lòng và bất lực nhớ đến những vần thơ buồn sũng nước mắt nói về tâm trạng của những người phụ nữ Việt Nam của Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh, TT. KH...
Chiều hôm đó, trời đổ mưa đột ngột. Mưa Sàigòn bao giờ cũng vậy, đến và đi thật nhanh. Khác với Hà Nội, những trận mưa dầm dề, day dứt, kéo dài nhiều ngày, nhiều tuần, khiến cuộc sống của người nghèo đã khổ lại càng thêm khổ. Tôi nhớ đến cuộc sống héo hon, cô đơn đầy lam lũ và vất vả của Mẹ tôi ở giữa vùng đất được mệnh danh "kinh thành ngàn năm văn vật". Và bây giờ, cùng với bóng ma cộng sản bao trùm lên cả nước, bao nhiêu đường nét thơ mộng, êm đềm, cuộc sống ấm êm hạnh phúc,... của người dân Miền Nam cũng đã bị xoá nhoà. Cả một đất nước, cả một dân tộc chìm đắm trong sợ hãi, bất công. Sống trong bầu không khí khủng bố do cộng sản gây ra lan tràn trên cả nước, những bi kịch trong gia đình, ngoài đường phố, trong xã hội... đang hiện ra nhan nhản từng giờ, từng phút trên quê hương của tôi...
Nhìn mái tóc đen rũ rượi của chị, tôi thở dài: - Cuộc đời của em hiện nay ở trong tình trạng hoàn toàn bế tắc. Em ở lại Việt Nam, không sớm thì muộn em sẽ bị bắt. Với tội chiêu hồi cộng với tội vượt ngục, em sẽ bị chúng nó tử hình hoặc bỏ tù chung thân. Vì vậy em mới phải tìm mọi cách vượt biên cho dù em có chết em cũng cam lòng. Nếu các cháu vượt biên một mình hay vượt biên với người khác, chẳng may bị bắt, tội trạng của các cháu cũng không nhiều, cùng lắm chỉ bị giam vài tháng đến một năm, sẽ được thả. Còn nếu các cháu vượt biên với em, nếu chẳng may bị bắt, một khi tụi cộng sản phăng ra lý lịch của em, các cháu sẽ bị liên luỵ, rất nguy hiểm. Chính vì vậy, nên em mới lo ngại, thưa thực với chị, kẻo sau này, chuyện đau lòng xảy ra, chị lại bảo sao em không bảo trước, để vì em mà các cháu bị liên luỵ.
Chị tôi ngước nhìn tôi, gương mặt dàn dụa nước mắt: - Chị thấy cậu đi đến đâu là gặp may mắn đến đó. Các cháu đi vượt biên với cậu, chắc chắn là không thể nào bị bắt. Chị tin như vậy mà...
Tôi cười gượng gạo: - Em cũng ước ao được may mắn như lời chị nói. Nhưng em không thể không đề phòng những chuyện rủi ro sẽ xảy ra. Và thực tế, như chị đã thấy, những rủi ro vẫn đến với em hoài hoài. Nếu không, thì tại sao em lại bị tụi nó bắt, nói giam giữ cả năm trời nay...
Chị tôi vẫn khẩn khoản: - Chị vẫn nói với các cháu, mạng của cậu lớn lắm. Dù gặp hiểm nguy đến đâu, cậu cũng sống sót. Thôi thì cậu đã về đến đây là cậu có duyên giúp chị, giúp các cháu. Cậu cho chúng nó đi theo cậu. Còn mọi chuyện tàu xe, tiền bạc chi tiêu dọc đường hết bao nhiêu, chị sẽ lo liệu hết.
Thấy chị một lòng một dạ tin tưởng trao gửi hai cháu cho tôi, tôi đành nhận lời. Nhận lời nhưng lòng tôi băn khoăn vô cùng. Cuộc đời của tôi cho đến lúc đó coi như đã chết nhiều lần, nên tôi chẳng quản ngại gì, sẵn sàng lao vào cái chết bất cứ lúc nào để tìm ra con đường sống cho chính mình. Mọi nguy hiểm, rủi ro tôi đều chấp nhận. Nhưng với hai người cháu, tuổi còn quá trẻ, tương lai còn dài, trong khi hoàn cảnh của cả hai cháu chưa đi đến bước đường cùng như tôi, nên tôi không muốn lôi kéo cả hai vào những phiêu lưu nguy hiểm tới mức sinh tử.
Kinh nghiệm những lần trốn chạy cộng sản đã cho tôi biết, có những giây phút thập phần nguy hiểm, đòi hỏi mình phải có những quyết định tức khắc. Nếu chỉ có một thân một mình, tôi dám có quyết định và dám chịu. Nhưng nếu có thêm người cùng đi, tôi sẽ ngần ngại không dám có những quyết định ảnh hưởng đến tính mạng của cả người khác. Và chỉ cần vài giây phút ngần ngừ, không dám có quyết định trong giây phút thập phần sinh tử đó, là sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường, có thể tù tội, chết chóc.
Điều thứ hai quan trọng không kém, nếu vượt biên một mình, tôi dám không mang theo bất cứ thứ hành lý đồ đạc nào, ngoại trừ có địa bàn, bản đồ và chút lương khô giấu kín trong người. Nhưng nếu người cháu gái và bạn trai của cháu cùng đi với tôi, chắc chắn hai người sẽ mang theo đủ thứ lỉnh kỉnh như mùng, mền, quần áo, đồ ăn thức uống. Mang tất cả những thứ đó trên người, xuất hiện ở một vùng đất xa lạ, nhất là nơi gần biên giới, là điều vô cùng nguy hiểm, chẳng khác chi "lậy ông tôi ở bụi này".
Biết vậy, nhưng thương chị, thương các cháu, cuối cùng tôi đã nhận lời. Nhận lời, để rồi hậu quả đã diễn ra đúng như điều tôi lo ngại.
CHUẨN BỊ VƯỢT BIÊN
Vào thời điểm đó, cả Miền Nam đang lên cơn sốt vượt biên. Bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu, gặp bất cứ ai, nói bất cứ chuyện gì, quanh đi quẩn lại, cuối cùng đều nói đến chuyện tàu bè, vượt biển, vượt biên. Cùng với những chiến dịch khủng bố người dân, lùa dân đi vùng kinh tế mới và o ép đàn áp người Hoa, cộng sản Việt Nam đã quỷ quyệt dàn dựng nên cả một chiến dịch "vượt biên bán chính thức" để vơ về vàng bạc và cướp trắng tài sản của hàng triệu người Việt, Hoa tại Miền Nam. Với bản chất vô thần, tàn nhẫn và thủ đoạn, cộng với đường lối chính sách công khai coi người dân Miền Nam là người của một nước bại trận, "tay sai của Mỹ Nguỵ", cộng sản Việt Nam đã tạo nên cả một hàng ngũ binh lính và cán bộ VC đối xử cực kỳ cạn tàu ráo máng và vô cùng tàn nhẫn đối với người dân vượt biên. Thêm vào đó, cùng với năm tháng, bản chất man rợ, quỷ mỵ của cộng sản đã lộ diện, khiến người dân Miền Nam chấp nhận mọi hiểm nguy, để vượt biển, vượt biên, trốn chạy cộng sản.
Vì hoàn cảnh của tôi không có một xu dính túi, nên tôi không thể nào đi theo diện "bán chính thức", vào thời điểm đó từ 10 cây đến 25 cây vàng cho một người. Hoàn cảnh của chị tôi lúc đó sau nhiều lần lo cho các cháu vượt biên thất bại, cũng rất túng bấn, chỉ có thể dúi cho chúng tôi vài lượng vàng, phòng khi qua biên giới, cần phải đổi chác. Do thiếu thốn như vậy, tôi quyết định vượt biên bằng đường bộ.
Tôi dự định, chúng tôi sẽ đi xe đò từ Sàigòn ra Quảng Trị, rồi từ Quảng Trị đi Đông Hà. Đây là địa điểm cuối cùng chúng tôi có thể đi xe đò vào lúc đó. Từ Đông Hà trở đi chúng tôi phải đi bộ theo ngả Quốc lộ 9 qua Cam Lộ, Khe Sanh, Làng Vây rồi băng qua biên giới Lào Việt tại đèo Lao Bảo. Khi an toàn đặt chân lên lãnh thổ Lào, chúng tôi sẽ tìm đường tới Sépone, rồi đi Savannakhet để rồi vượt sông Mekong qua Thái Lan.
Con đường vượt biên tôi vạch ra lúc đó chỉ có trên giấy tờ. Đó là con đường vượt biên đầy những bất trắc, nguy hiểm và có thể nói không tưởng. Nhưng trong hoàn cảnh của tôi, tôi không còn con đường nào khác. Tôi đã vạch ra con đường đó dựa vào bản đồ, cộng với những kiến thức về địa bàn, kỹ thuật cắt rừng, cách thức sống còn trong rừng rậm, mà tôi đã học khi còn trong bộ đội. Thêm vào đó, những ngày tháng hành quân trong rừng, cộng với chuyến cắt rừng đi tìm tự do thành công, đã giúp tôi thêm tin tưởng, tôi sẽ vượt biên qua con đường đó thành công. Để có thể đi dọc theo quốc lộ 9 một cách an toàn, tôi quyết định sẽ đi vào ban đêm, và sẽ lấy hướng địa bàn, để cắt đường đi trong rừng, bảo đảm song song với quốc lộ 9 cho đến khi qua được đèo Lao Bảo. Đối với sông Mekong, biên giới thiên nhiên giữa Lào và Thái Lan, tôi tin tưởnsg, với khả năng bơi lội thành thạo cả chục cây số của mình, tôi sẽ vượt qua không có gì khó khăn. Có điều, bây giờ chấp nhận vượt biên cùng với hai người cháu, chuyến đi cắt rừng dọc theo quốc lộ 9 trong đêm tối và việc vượt sông Mekong của tôi sẽ gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi đâu còn cách nào hơn. Thôi thì tôi chỉ biết cầu nguyện và làm hết sức mình.
Chuẩn bị cho chuyến đi, quan trọng nhất là giấy tờ tuỳ thân để chúng tôi có thể đi từ Sàigòn ra Đông Hà. Sau đó, hai vật dụng quan trọng khác là địa bàn và bản đồ. Về giấy tờ tuỳ thân, chắc chắn chúng tôi phải lo giấy tờ giả. Thời gian trước đây, khi cộng sản mới vô Miền Nam, trình độ về kỹ thuật của cộng sản còn sơ sài, chúng tôi có thể làm giấy tờ giả một cách dễ dàng. Nhưng hiện tại, tôi không còn đủ khả năng và sự tin tưởng để làm chuyện đó. Vì vậy, tôi đã tìm đến một người bạn rất thân, tên BL đang làm việc cho một cơ quan của nhà nước cộng sản ở Sàigòn.
BL ở ngay vùng Võ Di Nguy, Phú Nhuận, và làm việc ngay vùng Đa Kao, cách trường Thiên Phước Công giáo không bao xa. Để tránh mọi liên luỵ rắc rối cho BL, tôi bí mật đi theo BL suốt một buổi chiều ngày Thứ Bảy. Cho đến khi biết chắc thật an toàn, tôi mới đến gần, trao cho anh cuốn "Ngục Trung Nhật Ký" của Hồ Chí Minh. Chọn cuốn sách này trao cho anh là để đề phòng mọi con mắt cú vọ của công an cộng sản, vì nếu có chuyện gì bất ngờ xảy ra, cuốn sách cũng là tấm bình phong khiến cho cán bộ công an cộng sản bớt nghi ngờ. Sau này, trên đường trốn chạy cộng sản trên Miền Bắc, để vượt biên qua ngả biên giới Việt Trung, tôi cũng đã dùng cuốn sách này làm tấm bình phong, vượt qua rất nhiều trạm gác và qua mắt rất nhiều cán bộ công an cộng sản. (Còn tiếp...) |
posted by
Lien Mang Viet San @
7/01/2007 05:27:00 PM |
|
|