Hồi ký: Tôi Tìm Tự Do (Kỳ 29)

Bài Viết Đăng Nhập vào: Monday, October 16, 2006

<< Trở Lại Trang Đầu

- Hữu Nguyên -

Tôi là Nguyễn Hữu Chí, sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, từng có hơn một năm phải đội nón cối, đi dép râu, theo đội quân Việt Cộng xâm lăng Miền Nam. Trong những năm trước đây, khi cuộc đấu tranh bảo vệ chính nghĩa của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Úc còn minh bạch, lằn ranh quốc cộng còn rõ ràng, tôi hoàn toàn tin tưởng và sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu, thế lực của cộng sản. Nhưng gần đây, có những dấu hiệu rõ ràng chứng tỏ, những thế lực chìm nổi của cộng sản tại Úc đang tìm cách xóa bỏ lằn ranh quốc cộng, đồng thời thực hiện âm mưu làm suy yếu sức mạnh đấu tranh của người Việt hải ngoại. Trong hoàn cảnh đấu tranh ngày càng khó khăn đó, tôi thấy mình chỉ có thể đi tiếp con đường mình đã chọn khi được quý độc giả hiểu và tin tưởng. Vì vậy, tôi viết hồi ký này, kể lại một cách trung thực cuộc đời đầy đau khổ, uất ức và ân hận của tôi khi sống trong chế độ cộng sản, cũng như những nguy hiểm, may mắn khi tôi tìm tự do.... Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn trên nhiều phương diện, lại phải vừa duy trì tờ báo, vừa tham gia các sinh hoạt cộng đồng, vừa tìm cách "mưu sinh, thoát hiểm" giữa hàng chục "lằn tên đường đạn", nên hồi ký này có rất nhiều thiếu sót. Kính mong quý độc giả thông cảm bỏ qua, hoặc đóng góp nếu có thể.

*

(Tiếp theo...)

Tối hôm đó, chúng tôi nghỉ lại nhà của ông Quy và nghe ông kể về những bi kịch gia đình ông đã trải qua trong suốt thời gian từ 1965 cho đến 1975. Từ những chết chóc của những người thân trong gia đình ông cho đến những mất mát vô phương hàn gắn của làng xóm nơi ông ở. Nghe chuyện của ông, tôi biết rằng, trong suốt thời gian mấy chục năm qua, trên quê hương Việt Nam, những mất mát của ông cũng là mất mát chung của hàng triệu gia đình Việt Nam. Và mất mát nào cũng đau khổ, bi thương, đầy máu và nước mắt. Nhưng có điều lạ lùng, trước những mất mát tang thương đó, ông Quy không hề "căm thù Mỹ ngụy" như phần đông những người dân Miền Bắc bị cộng sản tuyên truyền. Có lẽ cuộc sống của ông ở Lào, cùng những chuyến đi buôn bán ở bên kia biên giới và mối quan hệ với người Thái Lan đã giúp ông nhìn ra bản chất của cuộc chiến tranh Việt Nam là cuộc xâm lăng của cộng sản Miền Bắc đối với Miền Nam. Chúng tôi còn ngạc nhiên hơn khi ông cho biết, tương lai người dân Việt Nam còn khốn khổ dài dài, vì cả nước sẽ phải "thắt lưng buộc bụng" để lấy gạo trả nợ cho Trung cộng. Ông cũng kể cho chúng tôi nghe, trong thời gian chiến tranh, khi Trung Cộng không còn viện trợ gạo cho Hà Nội, cả làng của ông đã phải làm những vỏ bao gạo giả có in chữ Trung Cộng, để giữ cho lòng người Miền Bắc khỏi hoang mang như thế nào. Ông Quy cũng tâm sự với chúng tôi về những ân hận hối tiếc của cha mẹ của ông khi nghe lời tuyên truyền của cộng sản, cho gia đình "hồi hương xây dựng đất nước". Ông Quy sống không vợ con. Chỉ một thân một mình lủi thủi cùng với một con chó mực và cả một quá khứ đau xót, đầm đìa nước mắt và kỷ niệm lúc nào cũng trĩu nặng trên hai vai. Ông Quy chỉ là người thiểu số, nhưng với sự từng trải và hiểu biết, ông đã đoán ra chúng tôi là ai ngay khi gặp chúng tôi trong quán ăn.

Hôm nay, tôi viết những dòng chữ này về ông Quy vì tôi muốn gửi gắm tới qúy độc giả một sự thực, ở Miền Bắc, trong cuộc sống khốn khổ, thiếu thốn và đói khát, lại bị cộng sản tuyên truyền nhồi sọ ngày đêm, nhưng vẫn có rất nhiều người, rất nhiều tấm lòng không hề bị nhuộm đỏ. Những người đó vẫn hướng tới Miền Nam tự do với lòng hy vọng trong suốt 20 năm. Rất tiếc, vì đất nước mình nhỏ bé, nên bị nhào nặn trong bàn tay nghiệt ngã của định mệnh, nên sau 20 năm chiến tranh, cuối cùng cộng sản chiếm được Miền Nam, khiến cho mọi hy vọng được người dân Miền Bắc âm thầm ấp ủ suốt thời gian dài, cuối cùng đều tan vỡ...

Tuy thời gian nghỉ lại nhà ông Quy chỉ có một đêm, nhưng không hiểu sao từ đó cho đến nay, suốt mấy chục năm trôi qua, tôi vẫn nhớ đến ông, nhớ đến chiếc điếu cầy ông hút, nhớ những nấm mồ bên cạnh nhà, trong đó có nấm mồ trồng đầy hoa mười giờ mà trong lòng một thì trống không. Tôi không biết đến bây giờ, trong lòng ngôi một đó đã có được chiếc quan tài, ấp ủ thân xác người em gái của ông hay chưa, hay chiếc máy bay nhỏ kỷ vật xưa, vẫn còn cô đơn trên chiếc kệ tre ở góc nhà...

*

Khoảng trung tuần tháng 5, chúng tôi đến Hà Nội an toàn. Mặc dù suốt chặng đường từ Vinh ra đến Hà Nội, chúng tôi bị hỏi giấy tờ nhiều lần, nhưng lần nào cũng trót lọt. Với khoa học kỹ thuật của Miền Nam, những giấy tờ giả mạo do Bình làm đã qua mắt dễ dàng mạng lưới an ninh của Miền Bắc.
Khi chuyến tàu tiến vô ga Hàng Cỏ, Hà Nội, tôi rất nôn nóng, muốn chắp cánh bay ngay về nhà của mẹ tôi. Tôi không biết trong mấy năm qua, cuộc sống của mẹ tôi ra sao. Vì trong những năm tháng ở Miền Nam tự do, tôi đã công khai viết bài tố cáo những tội ác của chế độ cộng sản; đã lên đài kể lại những bi kịch do cộng sản gây ra trên quê hương Miền Bắc; với tất cả tên tuổi thật, địa chỉ thật của mình, nên tôi biết, khi tôi trở lại Miền Bắc, tôi sẽ phải đối diện với rất nhiều nguy hiểm. Tôi biết, tôi không thể về thẳng quê nhà và cũng không thể về ngay nhà của mẹ tôi.

Trải qua nhiều chục năm, chế độ độc tài chuyên chế của cộng sản tại Hà Nội đã tạo nên cả một mạng lưới an ninh bao trùm đời sống của người dân, thâm nhập vô mỗi gia đình, nên không một ai dám tin ai, ngay cả bằng hữu, ruột thịt trong nhà. Thêm vào đó, cuộc sống thiếu thốn trăm bề, đói khát kinh niên của người dân Miền Bắc phải thường xuyên và vĩnh viễn tùy thuộc vào chế độ tem phiếu của nhà nước, đã khiến cho mỗi gia đình, mỗi người lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, không dám làm trái ý đảng, trái ý nhà nước để rồi mang họa đến cho những người thân yêu. Vì vậy, có thể nói, sau 30 tháng 4 năm 1975, trong những năm tháng phải sống ngoài vòng pháp luật, bị săn đuổi như một con thú, tôi luôn luôn thấy bình an, tự tin như cá bơi trong nước, khi tôi được ở trên lãnh thổ của Miền Nam. Trái lại, trên đất Bắc, tôi luôn cảm thấy lo sợ, hoảng hốt như cá bị mắc cạn.

Ngay cả sau này, khi trốn khỏi trại cải tạo Kà Tum, trên đường trở về Sàigòn, tôi luôn luôn được gặp những tấm lòng vàng của người dân Miền Nam. Mỗi khi gặp hoạn nạn, tôi nói thật tôi là tù cải tạo trốn trại, lập tức tôi được mọi người giúp đỡ tận tình, không nề hà nguy hiểm đến bản thân. Tôi còn nhớ, khi vừa trốn khỏi trại cải tạo, đi bộ suốt đêm về đến thị trấn Dầu Tiếng vào buổi sáng sớm tôi có ghé một quán nước cách bến xe khoảng vài trăm thước. Khi được tôi cho biết, tôi là tù cải tạo trốn trại, cô chủ quán đã nhất định không chịu lấy tiền tô phở và ly cà phê. Không những thế, cô còn cho tiền và chỉ cho tôi cách đón xe đò về Bình Dương, khỏi bị công an xét hỏi. Cô khuyên tôi đừng có vô bến xe, mà nên đứng đợi ở dọc đường rồi vẫy xe đò.

Rồi khi tôi lên được xe đò, vì mới trốn trại, không có bất cứ giấy tờ gì, mà trạm kiểm soát ở Bến Cát thì vô cùng nguy hiểm, nên trong nỗi lo sợ, tôi đánh liều nói thật cho mấy chị đi buôn ngồi cạnh biết tôi là tù cải tạo vừa trốn trại. Nghe xong, các chị liền nói bô bô cho tất cả mọi người trong xe biết. Lập tức cả chiếc xe đò nhốn nháo, mỗi người mỗi ý, ai ai cũng muốn giúp đỡ tôi. Lúc đó tôi nhớ là vừa nghỉ hè, nên có mấy nam nữ giáo viên, tuổi còn rất trẻ trên xe. Sau một hồi bàn bạc rôm rả, ầm ĩ của tất cả mọi người, kể cả tài xế lẫn lơ xe, tôi được các bà đẩy vào tận phía trong cùng ngồi, rồi các bà bắt tôi phải cởi áo ngoài, chỉ mặc có một chiếc áo lót lấm lem dầu mỡ của người lơ xe. Kế đó, tôi được một chị trao cho một em bé khoảng trên dưới một tuổi, bắt tôi phải bế, kèm theo một bình sữa. Mọi người dặn tôi, khi đến Bến Cát, cứ ngồi nguyên trên xe, để các bà các cô lo liệu. Sau đó, các chị còn chuẩn bị sẵn "tiền lì xì" để dúi tay mấy nhân viên an ninh nếu chúng nó muốn làm khó dễ... Tôi ngoan ngoãn làm theo sự chỉ dẫn của mọi người, và trong thời gian chớp nhoáng, tôi cảm thất thật an toàn và tự tin trong tấm lòng của người dân Miền Nam. Quả nhiên, khi đến Bến Cát, cửa sau xe mở ra, bóng vài người bộ đội đeo súng AK vừa thấp thoáng, đã bị các bà các cô xúm xít "đon đả chào đón tận tình", nên chẳng một tên bộ đội nào thèm hỏi giấy tờ của tôi....

Ngồi sâu trong xe, một tay bồng em bé khóc oe oe, tay kia cầm bình sữa cố nhét vô miệng để dỗ cho đứa bé nín, tai nghe các bà các cô đưa mấy anh cán ngố vào xiếc một cách dễ dàng, tôi mới nhận ra, người phụ nữ Việt Nam, bất kể họ là ai, già hay trẻ, cũng đều thông minh tuyệt vời, và sẵn sàng hy sinh để cứu vớt những kẻ cô thế, đùm bọc những người gặp hoạn nạn. Hãy nói thật với họ những nguy hiểm bạn đang đối diện, những khó khăn bạn đang gặp phải, chắc chắn bạn sẽ được giúp đỡ tận tình, dù họ là mẹ, là vợ, là chị em của bạn, hay chỉ là một người dưng tình cờ gặp gỡ ở một nơi nào đó... Đối với người phụ nữ Việt Nam, bạn đừng bao giờ nói dối họ, thì bạn sẽ không bao giờ gặp hoạn nạn, khó khăn, hay khổ đau...

Xế trưa hôm đó, khi xe về đến thị xã Bình Dương, mấy thầy cô giáo còn mời tôi một bữa ăn ngon lành. Trong khi tôi ăn, các cô giáo còn xách mấy bao gạo được nhà trường trả lương, đem đi bán, lấy tiền đưa cho tôi. Cầm tiền của các cô, tôi ứa nước mắt vì xúc động... và tôi không nói nên lời. Từ đó đến nay, trong suốt mấy chục năm trời, tôi vẫn nhớ mãi những con người với tấm lòng vàng mười trên chuyến xe đó từ Dầu Tiếng về Bình Dương. Tuy chẳng nhớ rõ được một gương mặt nào, một cái tên gọi nào, hay một địa chỉ nào, nhưng mỗi khi nhớ đến những kỷ niệm của ngày đó, tôi vẫn thấy trinh nguyên những bóng dáng ấy, những bàn tay ấy, thấp thoáng trong tâm trí, cùng với những xúc động cũng vẫn trinh nguyên như thuở nào của 31 năm về trước.... (Còn tiếp...)

posted by Lien Mang Viet San @ 10/16/2006 10:10:00 PM  

<< Trở Lại Trang Đầu

 

Liên Kết

BLOGGER

Bạn là người thứ  

Ghé Thăm LMVS